PGS-TS Trần Đình Thiên: Đã đến lúc doanh nghiệp tư nhân phải tạo ra áp lực để thay đổi chính sách, không thấy khó mà bàn lui
Theo PGS-TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, để thúc đẩy kinh tế tư nhân Việt Nam phát triển, doanh nghiệp tư nhân (DNTN) phải tạo ra áp lực thay đổi chính sách, không chỉ dừng lại ở việc “xin - cho”, thấy khó mà “bàn lui”.
Tại Tọa đàm “Giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân”, PGS-TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, đã có những chia sẻ về vai trò của khu vực tư nhân trong nền kinh tế thị trường và chỉ ra giải pháp để thúc đẩy kinh tế tư nhân Việt Nam phát triển.
![]() PGS-TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam |
Theo PGS-TS Trần Đình Thiên, bối cảnh hiện tại của khu vực DNTN đang có những chuyển biến mạnh mẽ, khác biệt so với trước đây khi các doanh nghiệp chưa dám lên tiếng mạnh mẽ. Như Tổng Bí thư đã khẳng định, khu vực DNTN là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế. Điều này đã tạo ra một bước chuyển mới, phá bỏ những định kiến, giáo điều và cấm kỵ trong quan điểm về kinh tế tư nhân.
Năm 1986, khi Việt Nam đưa kinh tế tư nhân vào nền kinh tế nhiều thành phần, lập tức nền kinh tế trong nước đã hồi sinh. Tuy nhiên, phải đến bây giờ, vai trò của kinh tế tư nhân mới thực sự được nhìn nhận là động lực quan trọng nhất. Sự kiện này mang ý nghĩa đặc biệt, là một điểm tựa quan trọng, tạo niềm tin vào sự lựa chọn nền kinh tế thị trường của Việt Nam hơn 40 năm nay thật sự đúng đắn và có triển vọng.
Thông thường, các số liệu thống kê cho thấy khu vực DNTN đóng góp bao nhiêu vào GDP, tạo ra bao nhiêu việc làm, đóng góp bao nhiêu vào ngân sách, xuất khẩu được bao nhiêu… nói lên rõ vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế.
Thực tế, trong thời gian qua, khu vực DNTN Việt Nam vẫn đang lép vế so với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Đội ngũ DNTN còn nhỏ, yếu, gặp nhiều khó khăn; số DN rút lui khỏi thị trường nhiều hơn số DN tham gia vào thị trường.
Hiện, khu vực tư nhân tạo ra được 85% việc làm và thu nhập cho người lao động, đây là nền tảng quan trọng của đất nước. Vai trò trong xuất nhập khẩu của khu vực DNTN cũng cho thấy sự cải thiện. Tuy nhiên, con số này cũng chưa nói lên được thực lực của khu vực này. Thực lực là phải giải quyết được vấn đề phát triển chứ không chỉ tạo việc làm, “kiếm chén cơm ăn”.
Thực tế, số lượng doanh nghiệp đại bàng của Việt Nam không nhiều. Năm này qua năm khác vẫn chỉ có từng ấy doanh nghiệp. Những doanh nghiệp này rồi cũng sẽ già, không có sự thay đổi, đổi máu. Lực lượng doanh nghiệp trẻ cho tương lai lại không có.
Từ đó, có thể thấy để kinh tế thị trường phát triển, lực lượng kinh tế tư nhân phải trở thành nền tảng đóng vai trò giúp nền kinh tế đất nước tiến kịp theo sự phát triển loài người, giải quyết được vấn đề tụt hậu so với nhiều quốc gia khác.
Đã đến lúc cần nhìn thẳng vào sự thật. Khi Tổng Bí thư nói rằng cần có chiến lược phát triển DNTN, không chỉ dừng lại ở việc giải quyết các vấn đề về cấp phép, mà phải tạo ra một chiến lược phát triển toàn diện. Chỉ có như vậy, đất nước mới có thể bắt kịp đà phát triển và tiến vào quỹ đạo mới.
“Ngay từ đầu, tư nhân Việt Nam đã làm được những điều mà tôi cho rằng kinh thiên động địa là đưa nền kinh tế này thoát khỏi khủng hoảng trong thời gian cực kỳ ngắn dù ở một vị thế thấp kém, chưa được coi trọng.” , PGS-TS Trần Đình Thiên nói.
Theo đó, PGS-TS Trần Đình Thiên cho rằng cần thay đổi được thái độ và tầm nhìn đối với lực lượng tư nhân thì mới thay đổi được cách ra chính sách. Chính sách trước đây đối với lực lượng tư nhân cơ bản có sự phân biệt đối xử nên DNTN Việt Nam “không dám lớn”.
Nếu chọn kinh tế thị trường và tư nhân đóng vai trò chủ đạo thì các chính sách phải hỗ trợ khu vực này trở thành lực lượng chủ đạo. Phải làm cho lực lượng này lớn lên và trưởng thành để đua tranh với thế giới bằng cách thay đổi môi trường kinh doanh của nền kinh tế thị trường trở nên bình đẳng.
Bình đẳng không phải là kéo “ông kia” xuống mà phải nâng DNTN Việt Nam lên, làm sao lãi suất của DNTN phải bằng với “ông kia”. Thế còn lãi suất cho doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam chỉ có 5%/năm, còn lãi suất cho DNTN cao hơn thì sẽ không có DNTN Việt Nam nào chịu được. Khái niệm phân biệt đối xử phải được nhìn nhận đến tận cùng như vậy, không chỉ nhìn vào quy định thủ tục.
Điều này hàm ý rằng cần phải mổ xẻ môi trường, tìm ra những trói buộc, cản trở như thủ tục, chi phí, thời gian, chi phí các loại cơ hội không được tiếp cận. Tồn tại những cản trở này là vì hiện tại chúng ta vẫn chưa xem thị trường là quyết định, vẫn là cơ chế “xin - cho”. Bao giờ có bình đẳng thì tất cả những trói buộc mới được tháo gỡ.
Cách tháo gỡ những trói buộc cũng phải theo hướng mới hoàn toàn. Xác định tinh thần tháo gỡ là phải thay đổi triệt để, tạo ra cái mới chứ không chỉ dừng lại ở việc cải tiến cái cũ. Giờ đây, cái mới là phải tạo ra một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam mới, tiếp cận được với công nghệ mới. Nỗ lực “thay máu” để DNTN Việt Nam có thể nhập cuộc được, có tinh thần khởi nghiệp sáng tạo thay vì lập nghiệp theo kiểu truyền thống như trước.
Không kém phần quan trọng là cần xây dựng một hệ thống thể chế mới. Luật Lao động hiện nay chủ yếu điều chỉnh lao động chân tay là chính, nhưng lần này cần có luật Lao động mới về “lao động trí óc” để phù hợp với bối cảnh mới. Phải có luật mới về khoa học và công nghệ, sở hữu trí tuệ… để tạo hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho DNTN phát triển.
Đã đến lúc khu vực DNTN phải tạo ra áp lực thay đổi chính sách, không chỉ dừng lại ở việc “xin - cho”, thấy khó mà “bàn lui”. Việc tạo ra áp lực là cần thiết để thúc đẩy sự thay đổi chính sách, qua đó tạo động lực phát triển cho kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
PGS-TS Trần Đình Thiên kết luận lâu nay, Việt Nam chưa có chiến lược phát triển cụ thể là vì Việt Nam mới chỉ phát triển số lượng doanh nghiệp nhưng chưa bao giờ tập trung vào phát triển “lực lượng doanh nghiệp”.
Chính vì thế, để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam phải được thiết kế thành “lực lượng doanh nghiệp Việt Nam”. “Lực lượng” là một khối sức mạnh, cấu trúc liên kết với nhau, tổ chức theo chuỗi, theo mảng. Như vậy, doanh nghiệp “to” mới kéo được doanh nghiệp “nhỏ”, tránh được các xung đột lợi ích.
Khang Di